Mắc bệnh động kinh có nên mang thai?

Hầu hết phụ nữ bị bệnh động kinh có thể có thai và có một em bé khỏe mạnh. Tuy nhiên, trong suốt quá trình thai nghén cần phải được theo dõi cẩn thận và dùng thuốc thích hợp, vì bệnh động kinh trong khi mang thai tiềm ẩn nhiều nguy cơ.

Đối với mẹ, do mang thai nên quá trình dùng thuốc để điều trị bệnh cũng hạn chế và có tính lựa chọn nên kiểm soát bệnh tật không hiệu quả bằng người tuân thủ phác đồ uống thuốc kháng động kinh. Đối với con, do mẹ mắc bệnh động kinh nên nguy cơ bị sảy thai, đẻ non cao hơn do những chấn thương vùng bụng trong cơn động kinh và gia tăng tỷ lệ thai chết lưu. Mặt khác, nếu trẻ sinh ra từ mẹ mắc bệnh động kinh có nguy cơ bị chậm phát triển trí tuệ và di truyền bệnh động kinh từ mẹ nên trẻ sẽ có các cơn co giật giống động kinh ở tỷ lệ cao gấp 2 lần. Vì vậy, với phụ nữa mắc bệnh cần thực hiện tốt các biện pháp trước khi mang thai để giảm thiểu rủi ro.

Trước hết, cần điều trị bệnh động kinh trước hai năm bằng cách uống thuốc kháng động kinh được bác sĩ chuyên khoa chỉ định. Khi bệnh tình ổn định, thuốc uống mỗi ngày giảm dần rồi bỏ hẳn mới có kế hoạch thụ thai. Trong quá trình mang thai, ba tháng đầu tuyệt đối không uống bất kỳ thuốc gì để tránh ảnh hưởng xấu đến thai nhi. Nếu cần thiết các bác sĩ sẽ thận trọng cân nhắc. Những tháng tiếp theo, nếu hiện tượng động kinh xuất hiện thì phải uống thuốc với liều thấp và không uống liên tục để tránh co giật, dẫn đến nguy cơ sinh non. Theo kinh nghiệm, trong quá trình phụ nữ mang thai, nhiều người bệnh động kinh ít tái phát bệnh.

Nếu mắc bệnh động kinh thì thai phụ cần chủ động đi khám ở bác sĩ chuyên khoa thần kinh trước khi mang thai và khi đã có thai giúp kiểm soát lượng thuốc và loại thuốc cần thiết khi thai nhi phát triển.

Ngoài ra, người mẹ cần có chế độ dinh dưỡng tốt, tránh thuốc lá, rượu, cà phê, trà đặc và thuốc gây nghiện trong quá trình mang thai. Do thể trạng mắc bệnh sức khỏe không tốt nên người mẹ cần tránh tiếp xúc với các chất hóa học độc hại có trong môi trường như thuốc trừ sâu, sơn... Tất cả những chất độc hại này đều được xác nhận gây ra các vấn đề khi mang thai và ảnh hưởng xấu đến bào thai.

Trong khi đang mang thai, thai phụ cố gắng giảm căng thẳng (stress), tránh có những cảm xúc mạnh. Nghỉ ngơi và ngủ nhiều, đồng thời tham gia các bài tập thể dục như đi bộ mỗi ngày, làm việc nhẹ nhàng. Nếu căng thẳng quá mức cần đến cơ sở y tế để được tư vấn thêm về các kỹ thuật thư giãn.

Tuân thủ tuyệt đối quá trình điều trịĐối với người mắc bệnh động kinh nếu quyết định mang thai cần tuân thủ tuyệt đối phác đồ dùng thuốc trong quá trình thai nghén và báo lại những cơn co giật cho bác sĩ để tiến hành các đo đạc giảm thiểu co giật. Không tự ý sử dụng thuốc kể cả thuốc đông y tránh tác dụng phụ của thuốc gây nguy hiểm cho cả mẹ và thai nhi.Trong khi mang thai, bệnh nhân cần đến khám thường xuyên để bác sĩ có thể điều chỉnh thuốc cho phù hợp và kiểm tra định kỳ cho thai nhi.

Bác sĩ Hữu Thông

Nguy hiểm khi vỡ ối sớm

Vợ tôi mang thai được 7 tháng. Tôi nghe nói có nhiều trường hợp bị vỡ ối non nên rất lo lắng. Vậy xin bác sĩ cho biết nguyên nhân và yếu tố nào gây nên tình trạng vỡ ối non?

Văn Hùng (An Giang)

Ối vỡ non là một biến cố trong quá trình thai kỳ, là mối lo lắng của các bà mẹ khi mang thai. Ối vỡ non dẫn đến sinh non và gây ra hàng loạt các biến chứng cho thai nhi như: nhiễm khuẩn ối, nhiễm khuẩn bào thai, hội chứng suy hô hấp, xuất huyết não thất, xuất huyết giảm tiểu cầu, hoại tử ruột, nhiễm khuẩn huyết và bất thường chức năng vận động, thần kinh.

Hiện nay, một số các yếu tố nguy cơ gây ra ối vỡ non đã có những bằng chứng xác thực. Các bệnh lây truyền qua đường tình dục như: giang mai, lậu, Herpes sinh dục... và các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh dục dưới như viêm âm đạo do vi khuẩn, do nấm, do Trichomonas, viêm cổ tử cung... là thủ phạm đóng vai trò trong vỡ ối non. Ngoài ra còn có các nguyên nhân làm ối vỡ non như: ngôi thai bất thường, ngôi ngang, ngôi mông, nhau tiền đạo, đa ối, đa thai, khung chậu hẹp... Người mẹ trong lúc mang thai mà hút thuốc lá gây ối vỡ non cao gấp đôi ở những người không hút thuốc lá trong thai kỳ. Cơ địa cổ tử cung ngắn, hở eo tử cung, thể trạng suy dinh dưỡng ăn uống kém, có tiền căn ối vỡ non cũng là những nguyên nhân gây vỡ ối non.

Dự phòng ối vỡ non bằng cách điều trị dứt điểm các nhiễm khuẩn như đã nói trên. Khâu eo tử cung khi bị hở eo tử cung. Không hút thuốc lá. Dinh dưỡng trong lúc mang thai cũng cần được chú trọng.

BS. Nguyễn Hữu

Nguy cơ nếu không chữa u nang buồng trứng

Phạm Thị Anh Thư (anhthu1288@gmail.com)

u nang buồng trứng

U nang buồng trứng thường chỉ được phát hiện khi đi khám phụ khoa, siêu âm một số bệnh khác hoặc qua kiểm tra sức khỏe tổng quát. Tuy nhiên có một số trường hợp xuất hiện các triệu chứng: rối loạn kinh nguyệt như rong kinh, rong huyết, đau bụng... Một số trường hợp mới đầu là u lành tính, nhưng nếu được phát hiện muộn hoặc không tiến hành chữa trị kịp thời có thể dẫn đến u ác tính (tuy ít). Thỉnh thoảng gặp một số trường hợp gọi là u quái buồng trứng (những khối u này khi xẻ ra, bên trong có cả tóc, sụn, xương)... Biến chứng thường gặp của u nang buồng trứng là: xoắn cuống khối u (gây đau bụng dữ dội); vỡ u (ngoài đau bụng, còn gây xuất huyết trong); chèn ép các cơ quan lân cận như đường tiêu hóa (gây rối loạn tiêu hóa), đường tiết niệu, bàng quang (gây khó tiểu, bí tiểu)...; hoặc hóa thành u ác tính... Có rất nhiều cách để chữa u nang buồng trứng, tuy nhiên phụ thuộc nhiều vào kích thước, các dạng nang, lứa tuổi và tình trạng sức khỏe của phụ nữ, cũng như các biểu hiện nghiêm trọng của u nang buồng trứng. Em nên nghe theo sự tư vấn của bác sĩ đã thăm khám cho mình, đừng bỏ lỡ cơ hội điều trị sớm nếu muốn mang thai.

BS. Kim Oanh

Hơn 2.400 phụ nữ tử vong vì ung thư cổ tử cung mỗi năm

Ngày 10/11, Bộ Y tế phối hợp với Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam tổ chức hội thảo phổ biến kế hoạch hành động quốc gia về dự phòng và kiểm soát UTCTC tại Việt Nam giai đoạn 2016-2025.

Thứ trưởng Bộ Y tế Lê Quang Cường cho biết: Với sự hỗ trợ của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), Bộ Y tế đã xây dựng và ban hành kế hoạch hành động quốc gia về dự phòng và kiểm soát UTCTC giai đoạn 2016-2015. Kế hoạch hành động đưa ra những phương hướng, giải pháp và hoạt động chính để thực hiện có hiệu quả việc phòng ngừa, phát hiện sớm và điều trị kịp thời UTCTC tại Việt Nam.

Tử vong do ung thư cổ tử cung tăng gấp đôi do biến chứng thai sản

UTCTC vẫn là mối quan tâm sức khỏe cộng đồng và tiếp tục đe dọa cuộc sống và sức khỏe của phụ nữ. Trên toàn thế giới, UTCTC là loại ung thư đứng thứ 3 trong số các loại ung thư phổ biến ở phụ nữ. Trong năm 2012, khoảng 275.000 phụ nữ chết vì UTCTC và hơn 85% các trường hợp tử vong xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và thu nhập trung bình, nơi mà phụ nữ thường không được tiếp cận tầm soát và điều trị UTCTC.

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), ước tính đến năm 2030, số ca tử vong do UTCTC dự kiến sẽ tăng lên 443.000 trên toàn cầu, nhiều hơn gấp đôi con số dự đoán tử vong do các biến chứng liên quan đến thai sản.

Tử vong do UTCTC gây ra các chi phí kinh tế đáng kể và ảnh hưởng nặng nề tới nguồn lực của các hộ gia đình. Các chi phí toàn cầu liên quan tới UTCTC dự kiến sẽ tăng từ 2,7 tỉ đô la Mỹ (2010) lên 4,7 tỉ đô la Mỹ (2030).

UTCTC là loại ung thư đứng thứ 3 trong số các loại ung thư phổ biến ở phụ nữ. Ảnh minh họa.

Theo PGS.TS Ngô Văn Toàn, ĐH Y Hà Nội, tại Việt Nam, UTCTC là một trong những nguyên nhân gây tử vong do ung thư thường gặp nhất. Đây là loại ung thư được xếp thứ 4 trong các loại ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ và đứng hàng thứ 2 trong các loại ung thư sinh dục ở nữ giới trong độ tuổi sinh sản. Năm 2012, ở Việt Nam có gần 6.200 phụ nữ được chẩn đoán mắc mới UTCTC và đã có trên 2.400 phụ nữ tử vong vì UTCTC. Một nghiên cứu được thực hiện ở phụ nữ từ 35-60 tuổi tại 7 tỉnh thành phố tại Việt Nam từ năm 2008-2010 cho thấy, tỉ lệ mắc UTCTC tại thời điểm đó là 19,9 trường hợp trên 100.000 phụ nữ.

Nên tiêm HPV cho trẻ em gái từ 9-13 tuổi phòng ngừa UTCTC

Các chuyên gia cho biết, ứng phó quốc gia toàn diện với UTCTC bao gồm dự phòng, sàng lọc và điều trị. Vắc xin HPV là yếu tố quan trọng trong công tác UTCTC. Các bằng chứng cho thấy phần lớn UTCTC có thể phòng ngừa một cách triệt để và việc tiêm chủng phòng HPV cho trẻ em gái ở độ tuổi 12 tuổi sẽ giúp ngăn ngừa 690.000 ca nhiễm UTCTC và ngăn ngừa được 420.000 ca tử vong trên toàn thế giới. WHO khuyến cáo chú trọng vào việc tiêm vắc xin HPV cho các em gái từ 9-13 tuổi.

WHO khuyến cáo chú trọng vào việc tiêm vắc xin HPV cho các em gái từ 9-13 tuổi. Ảnh minh họa.

Bà Astrid Bant, Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam cho biết: Việc phát hiện sớm và điều trị kịp thời UTCTC đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc cứu mạng sống của người phụ nữ và cải thiện sức khỏe của họ một cách toàn diện. Ngoài ra, việc phát hiện và điều trị sớm UTCTC còn có những quan hệ tích cực tới việc thực hiện các mục tiêu về xóa đói giảm nghèo, giáo dục và bình đẳng giới. Thông thường, UTCTC thường xuất hiện ở phụ nữ tại lứa tuổi tương đối trẻ và tỉ lệ tử vong tăng dần khi phụ nữ bước vào lứa tuổi 40.

"Tử vong ở độ tuổi này khiến người phụ nữ mất đi nhiều năm tháng trong cuộc đời, đồng thời gây ra những tổn thất nặng nề cho gia đình, cộng đồng và toàn bộ nền kinh tế. Rất nhiều người trong số những phụ nữ tử vong do căn bệnh này là những người có vai trò trụ cột trong gia đình hoặc là những người có trách nhiệm trông nom chăm sóc người khác. Vì thế khi họ không còn nữa, gia đình của họ sẽ phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề về tài chính và tình cảm. Thu nhập trong gia đình giảm sẽ khiến trẻ em, nhất là trẻ em gái phải bỏ học để phụ giúp gia đình, điều này tạo ra vòng đói nghèo và sự bất bình đẳng dai dẳng từ thế hệ này sang thế hệ khác"- bà Astrid Bant nói.

Tất cả phụ nữ đều có quyền được sàng lọc UTCTC. UNFPA và các đối tác phát triển cam kết sẽ tiếp tục thực hiện các hoạt động tư vấn chính sách và hỗ trợ kỹ thuật nhằm giúp Việt Nam tạo dựng môi trường thuận lợi cho việc xây dựng các chính sách và luật pháp trong đó tôn trọng và đảm bảo quyền cho mọi người dân.

Dương Hải

6 nguyên tắc để thu nhỏ kích thước u xơ tử cung

1. Giảm thiểu thực phẩm gây tăng chỉ số đường huyết

Ăn những loại thực phẩm có khả năng làm tăng chỉ số đường huyết (GI – Chỉ số phản ánh tốc độ làm tăng đường huyết sau khi ăn) được cho là tiềm ẩn nguy cơ thúc đẩy khối u xơ tử cung phát triển. Lý do là bởi vì chúng sẽ khiến nồng độ yếu tố tăng trưởng giống Insulin-1 (IGF-1) cao lên. Nghiên cứu trong ống nghiệm cho thấy, tế bào khối u xơ tử cung sinh sôi nảy nở nếu có sự hiện diện của IGF – 1. Do vậy, chị em bị u xơ nên hạn chế ăn những thực phẩm có chỉ số GI cao như: gạo trắng, bánh mì, bánh gạo, khoai tây chiên,...

Khoai tây chiên có thể chứa chỉ số GI cao

2. Hạn chế thực phẩm giàu hormone estrogen

Do estrogen bị nghi ngờ có mối liên quan đến sự xuất hiện và làm tăng kích thước u xơ tử cung, nên bất kỳ yếu tố nào dẫn đến gia tăng hormone này cũng cần được loại bỏ. Mặt khác, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, khi estrogen giảm thì phụ nữ ít có nguy cơ mắc u xơ tử cung. Do vậy, người bệnh cần giảm lượng thực phẩm chứa nhiều estrogen và bổ sung chất xơ vào chế độ ăn hàng ngày.

3. Nâng cao hệ miễn dịch

Để làm được điều này, bạn cần có lối sống lành mạnh, bằng cách: không hút thuốc lá; ăn nhiều trái cây, rau, ngũ cốc nguyên hạt; luyện tập thể dục đều đặn; duy trì trọng lượng cơ thể ở mức độ vừa phải; kiểm soát huyết áp; ngủ đủ giấc…

4. Giải độc cơ thể khi cần thiết

Gan là cơ quan nội tạng lớn nhất, với chức năng giải độc cho toàn bộ cơ thể. Nếu gan không hoạt động, cơ thể sẽ bị lấp đầy bởi các độc tố và hormone estrogen dư thừa.

Giải độc và tăng cường chức năng gan sẽ giúp đẩy nhanh quá trình loại bỏ estrogen dư thừa, độc tố cũng như các tạp chất khác ra khỏi cơ thể. Bạn nên uống nhiều nước mỗi ngày để giúp gan hoạt động thuận lợi hơn.

5. Giảm căng thẳng

Theo chuyên gia, căng thẳng có liên quan đến một số bệnh, và u xơ tử cung cũng nằm trong đó. Thiền, yoga, đi bộ và chạy bộ có thể giúp giảm căng thẳng, nhất là khi người bệnh thực hiện thường xuyên.

Chị em bị u xơ tử cung nên tăng cường tập thể dục nhẹ nhàng

6. Thảo dược – Phương pháp đơn giản giúp thu nhỏ kích thước u xơ tử cung

Ngoài áp dụng 5 nguyên tắc ăn uống và luyện tập như trên, hiện nay, để giảm kích thước khối u xơ một cách an toàn, hiệu quả thì sử dụng thảo dược đang được nhiều người tin tưởng lựa chọn. Tiêu biểu cho xu hướng này là sản phẩm có thành phần chính chiết xuất từ cây trinh nữ hoàng cung.

Vị thuốc trinh nữ hoàng cung, đã được sử dụng lâu đời trong hoàng cung để chữa trị các bệnh ở nữ giới. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, y học hiện đại đã tiến hành nghiên cứu và cho thấy, trong trinh nữ hoàng cung chứa nhiều hoạt chất sinh học, có tác dụng tăng cường hệ miễn dịch, chống viêm, giảm khối u, điều hòa hormone sinh dục ở nữ giới.

Đặc biệt, khi kết hợp cùng với các thảo dược khác như hoàng kỳ, hoàng cầm, khương hoàng, thì trinh nữ hoàng cung đã phát huy tối đa công dụng trong việc tăng cường sức khỏe buồng trứng, tử cung, thu nhỏ kích thước khối u xơ; hỗ trợ điều trị, phòng ngừa u xơ tử cung cũng như các khối u phụ khoa một cách hiệu quả.

Áp dụng các nguyên tắc ăn uống và luyện tập khoa học là điều kiện tiên quyết giúp bạn phòng ngừa, điều trị u xơ tử cung. Và để có kết quả tốt thì bạn đừng quên kết hợp sử dụng sản phẩm thảo dược chứa thành phần chính từ cây trinh nữ hoàng cung mỗi ngày!

Thực phẩm chức năng Nga Phụ Khang – Giúp giảm nỗi lo u xơ tử cung, u nang buồng trứngNga Phụ Khang là thực phẩm chức năng giúp hỗ trợ điều trị, phòng ngừa các bệnh ở buồng trứng và tử cung như: u xơ, u nang, rối loạn kinh nguyệt, ung thư… Nga Phụ Khang chứa thành phần là trinh nữ hoàng cung, kết hợp cùng với hoàng kỳ, hoàng cầm, khương hoàng. Tới nay, sản phẩm đã được nhiều người biết đến và sử dụng như một thực phẩm hỗ trợ điều trị, phòng ngừa các bệnh ở buồng trứng, tử cung.Để sử dụng Nga Phụ Khang đạt hiệu quả tốt: nếu phòng ngừa các bệnh ở buồng trứng, tử cung và tăng cường sức đề kháng, nên uống 03 lần/ ngày, mỗi lần 02 viên; nếu dùng hỗ trợ điều trị cho người bị u xơ, u nang, rối loạn kinh nguyệt, nên uống 03 lần/ ngày, mỗi lần 03 viên. Sử dụng liên tục từ 2-3 tháng để có kết quả tốt.Phân tích về công dụng của sản phẩm Nga Phụ Khang, chuyên gia sẽ có những chia sẻ thú vị cho bạn đọc TẠI Đ Y

Sản phẩm này không phải là thuốc và không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh

Để biết thêm thông tin, vui lòng liên hệ số điện thoại tư vấn: 04.3775.7066/ 08.3977.0707

Bích Ngọc

Chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ sơ sinh từ gia đình tới bệnh viện

Trong thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được sự tiến bộ vượt bậc về tỷ lệ sống sót bà mẹ và trẻ sơ sinh thông qua nỗ lực tăng cường tính sẵn có của dịch vụ chăm sóc sức khỏe và tiếp cận tốt hơn với dịch vụ chăm sóc trước sinh trên toàn quốc. Mặc dù đã đạt được những cải thiện đáng kể nhưng tình trạng sức khỏe và tỷ lệ tử vong giữa các vùng miền và giữa các nhóm dân tộc thiểu số tại Việt Nam vẫn còn tồn tại sự chênh lệch đáng kể. Chất lượng của công tác chăm sóc sức khỏe và cung cấp dịch vụ y tế cho bà mẹ và trẻ sơ sinh vẫn còn thấp tại các khu vực nghèo nhất và nhiều trở ngại nhất trên cả nước.

Tại 62 huyện nghèo nhất cả nước, đồng thời là nơi sinh sống của đa số phụ nữ người dân tộc thiểu số, tỷ lệ tử vong mẹ cao hơn gấp 3 lần so với tỷ lệ tử vong trung bình trên toàn quốc, với 157 trường hợp tử vong trên 100.000 trẻ trẻ sống. Năm 2014, tỷ lệ tử vong của nhóm trẻ dưới 5 tuổi trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở mức 53/1.000 trẻ đẻ sống, cao hơn 2,5 lần so với tỷ lệ tử vong cùng nhóm trên toàn quốc. Tỷ lệ này cũng bao gồm cả số trẻ sơ sinh người dân tộc thiểu số tử vong trong tháng đầu tiên sau sinh ở mức 29/1.000 trẻ trẻ sống, so với tỷ lệ 12/1.000 trẻ trẻ sống trên toàn quốc.

Chăm sóc sức khoẻ cho trẻ sơ sinh đã được cải thiện

Tổ chức Cứu trợ Trẻ em đã phát triển trên toàn cầu một mô hình toàn diện để cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh dựa trên hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện hành, tăng cường chăm sóc sức khỏe ban đầu và huy động cộng đồng địa phương. Cách tiếp cận này, chăm sóc sức khỏe liên tục từ Gia đình đến Bệnh viện, cho phép các tỉnh, huyện, trạm y tế xã và cộng đồng có thể đánh giá, cải thiện, theo dõi và duy trì một tập hợp các hoạt động lồng ghép như cải thiện thực hành chăm sóc sức khỏe tại nhà, củng cố các dịch vụ y tế ngoại tuyến tại những nơi cần thiết; chuyển tuyến hiệu quả; cung cấp thiết bị vật tư thiết yếu; và cải thiện hệ thống nhân lực y tế.

Mô hình này nhằm mục đích cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em có chất lượng; tăng nhu cầu sử dụng từ đó tăng sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh; củng cố môi trường quản lý, chính sách nhằm đảm bảo giảm tử vong và di chứng của bà mẹ và trẻ sơ sinh một cách bền vững.

Nói về dự án, bà Dragana Strinic, Giám đốc Quốc gia Save the Children tại Việt Nam cho biết: “Qua 11 năm thực hiện dự án đã đạt được nhiều thành tựu trong việc nâng cao năng lực của cán bộ y tế, cải thiện chất lượng dịch vụ chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh tại các tuyến tỉnh, huyện và xã thụ hưởng dự án. Các thực hành tốt và can thiệp hiệu quả của dự án trong chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh được Bộ Y tế nhân rộng trên phạm vi toàn quốc”.

Trong khuôn khổ Dự án, Tổ chức Cứu trợ Trẻ em đã góp phần phát triển Kế hoạch hành động quốc gia về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em giai ñoạn 2016-2020 và Hướng dẫn Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. Thêm vào đó, đại học Y dược Huế phối hợp với đại học Y Hà Nội và đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh nhằm phát triển tài liệu đào tạo về phụ - sản và nhi. Bộ Y Tế khuyến nghị tất cả các trường đại học y trên khắp cả nước sử dụng tài liệu này như tài liệu tham khảo cho sinh viên.

P Hà

Tiếp cận điều trị dọa sinh non từ những quan điểm mới

Theo thống kê, cứ 100 trẻ sinh ra và sống được thì có đến 12 trẻ sinh non, hậu quả sinh non là trẻ phải đối mặt với nhiễm trùng, khả năng thích nghi kém với môi trường sống ngoài tử cung, vì cơ thể chưa hoàn thiện; sinh non cũng là nguyên nhân chính gây tử vong trẻ sơ sinh tại các quốc gia đã phát triển, làm tiêu tốn một khoản ngân sách không nhỏ cho việc chăm sóc các trẻ sơ sinh non tháng này.

Trì hoãn chuyển dạ sinh non có thể làm giảm tỉ lệ các biến chứng này, do cải thiện sự phát triển và trưởng thành của các cơ quan và hệ thống, đủ thời gian cho liệu pháp glucocorticoid trước sinh có hiệu quả, góp phần làm giảm suất độ và độ nặng của hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh, đồng thời cho phép chuyển tuyến đến nơi có đơn vị chăm sóc sơ sinh tích cực.

sinh non80% số thai phụ có triệu chứng và nghi ngờ dọa sinh non, đã không diễn tiến đến sinh non

Chẩn đoán dọa sinh non

Không phải tất cả thai phụ có cơn co tử cung dọa sinh non sẽ diễn tiến sinh non. Nhiều nghiên cứu cho thấy 80% số thai phụ có triệu chứng và nghi ngờ dọa sinh non, đã không diễn tiến đến sinh non. Trên thực tế, dọa sinh non thường bị chẩn đoán quá mức, do thiếu phương tiện chẩn đoán hoặc loại trừ “dọa sinh non thực sự” và tiên lượng khả năng diễn tiến sinh non. Một số triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng lưu ý khi chẩn đoán có dọa sinh non:

- Cơn co tử cung > 30 giây, có ít nhất 4 cơn/ 20 phút, sờ cảm nhận được cơn co tử cung và gây đau.

Việc trì hoãn chuyển dạ sinh non có thể giúp giảm tỉ lệ các biến chứng

- Có sự biến đổi về vị trí, mật độ, độ dài và/ hoặc xóa mở cổ tử cung.

- Siêu âm ngả âm đạo (độ nhạy cao hơn siêu âm ngả bụng) thấy cổ tử cung ngắn đi.

- Xét nghiệm fetal fibronectin (fFN) giúp ích trong việc đánh giá SPB, làm giảm số bệnh nhân nhập viện không cần thiết, cũng như giảm thời gian nằm viện và chi phí điều trị.

Vì vậy, trong các y văn hiện nay, khuyến cáo không điều trị giảm co cho các thai phụ không có bằng chứng của dọa sinh non, nhất là khi không có các bằng chứng từ các chỉ điểm hình ảnh và sinh học. Hai yếu tố được quan tâm nhiều nhất, có thể tiên lượng được khả năng diễn tiến sinh non, là chiều dài cổ tử cung và fFN. Tiên lượng khả năng diễn tiến đến sinh non có vai trò quan trọng, nhằm có biện pháp dự phòng hợp lý, tránh can thiệp không cần thiết.

Chiều dài cổ tử cung: đo ngoài cơn co tử cung ở tuần thứ 19 đến tuần thứ 24 giúp đánh giá nguy cơ sinh non do cổ tử cung ngắn và chỉ định giải pháp dự phòng như khâu eo tử cung hoặc sử dụng progesterone đặt âm đạo. Chiều dài cổ tử cung đo vào thời điểm chẩn đoán có dọa sinh non giúp tiên lượng diễn tiến xảy ra sinh non trong vòng 7 ngày. Chiều dài cổ tử cung giúp phân biệt nhóm thai phụ có nguy cơ và bình thường là 15mm và 25mm. Tuy nhiên, chiều dài này thay đổi tùy theo nhiều nghiên cứu của các tác giả khác nhau.

fFN: được tìm thấy ở bề mặt trung gian các màng thai (màng ối và màng đệm), bản chất là một protein có khả năng kết dính sinh học, giúp cho túi thai gắn kết với thành cơ tử cung. Nồng độ fFN thấp được tìm thấy trong dịch tiết âm đạo-cổ tử cung ở các thai phụ bình thường, nhưng khi fFN tăng cao ≥ 50 ng/mL (từ tuần 22 trở đi), thai phụ đó có nguy cơ cao bị sinh non.

Từ dấu hiệu của chẩn đoán hình ảnh và chỉ điểm sinh học, điều trị cắt cơn co tử cung không được chỉ định khi fFN âm tính và chiều dài cổ tử cung > 2,5cm.

Điều trị

Trong khi các liệu pháp cắt cơn co tử cung không thể được chỉ định cho tất cả mọi trường hợp SPTL, một số nghiên cứu cung cấp chứng cứ cho thấy nếu được điều trị thì vẫn tốt hơn là không điều trị. Chưa có thuốc cắt cơn co tử cung hiện tại hoàn hảo đạt 100% hiệu quả và 100% an toàn, mọi cố gắng hiện nay vẫn đang tiếp tục để ngỏ hầu tìm ra được những thuốc có hiệu quả và an toàn cao nhất.

sinh non

Sự thật về giảm tử suất và bệnh suất cho trẻ sơ sinh trên các thai phụ có sử dụng thuốc cắt cơn co tử cung không được biết rõ, nhưng chưa có nghiên cứu nào đủ lớn và đủ mạnh về vấn đề đó. Thuốc cắt cơn co tử cung có thể trì hoãn cuộc chuyển dạ sinh nhằm có đủ thời gian để tiếp nhận và phát huy hiệu quả tối ưu của liệu pháp glucocorticoid trước sinh, cũng như sắp xếp chuyển viện khi trẻ còn nằm trong bụng mẹ đến các trung tâm có đơn vị săn sóc sơ sinh tích cực - cả hai điều này đều nhằm làm giảm tử suất và bệnh suất sơ sinh.

Một số thuốc (beta-2-agonist và atosiban) đã được chứng nhận để sử dụng như thuốc điều trị cắt cơn co và chỉ được sử dụng đặc biệt trong điều trị chuyển dạ sinh non (như atosiban). Hầu hết các thuốc chống co thắt có nhiều tác dụng không mong muốn lên nhiều cơ quan, trong thực tế, dựa trên các chứng cứ y học an toàn và hiệu quả, atosiban đã có nhiều chứng cứ được xem là chọn lựa hàng đầu cắt cơn co tử cung trong điều trị SPTL với mục đích ngăn ngừa hoặc trì hoãn chuyển dạ sinh non.

Vào những năm 1960, điều trị dọa sinh non được đề nghị bao gồm: nằm nghỉ một chỗ, bù dịch, giảm đau và cho các thuốc ức chế oxytocine. Đến năm 1970, FDA phê chuẩn ritodrine là beta-1-agonist (isoxsuprine). Năm 1980, xuất hiện tiếp các thuốc cắt cơn co tử cung khác như beta-2-agonist (ritodrine, salbutamol, terbutaline, hexaprenaline, orciprenaline, fenoterol); magnesium sulfate; ức chế tổng hợp prostaglandin (PGSIs) như indomethacin. Đến đầu những năm 1990, công bố của nhóm nghiên cứu chuyển dạ sinh non tại Canada đã đưa ra các cảnh báo sử dụng các thuốc thuộc nhóm beta-2-agonist, cho thấy có sự gia tăng tác dụng không mong muốn nghiêm trọng về tim mạch, phù phổi, đã dẫn đến việc có sự thay đổi dần dần trong điều trị dọa sinh non hoặc không sử dụng điều trị cắt cơn co tử cung bằng beta-2-agonist nữa; hoặc sử dụng các thuốc khác như đối vận receptor oxytocin là atosiban, chẹn kênh canxi (nifedipine) và nitric oxide. Tuy nhiên cho đến nay, dường như chưa có thuốc giảm gò nào tỏ ra có vượt trội về hiệu quả hơn các thuốc còn lại.

Như vậy, ngoài việc chỉ định liệu pháp glucocorticoid nhằm mục đích hỗ trợ phổi cho sơ sinh, các thuốc nào nên được chọn lựa để giúp cho việc trì hoãn chuyển dạ, tạo điều kiện thuận lợi cho liệu pháp glucocorticoid được tiếp nhận và phát huy tối ưu vai trò của mình, đồng thời kịp chuyến tuyến thai phụ đến các trung tâm y tế có săn sóc sơ sinh tích cực? Câu trả lời vẫn còn khá nhiều tranh luận, không phải khó khăn trong lựa chọn theo đặc tính thai phụ và tính ưu việt của từng loại thuốc, mà có lẽ chủ yếu là tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, hệ thống và cơ sở y tế cũng như chính sách bảo hiểm của từng quốc gia.

Các thuốc đã được biết đến nhằm giảm gò, bảo vệ não bộ thai nhi, hỗ trợ phổi cho thai:

- Đồng vận beta (ritodrine, terbutaline, salbutamol).

- Đối vận thụ thể oxytocin (atosiban).

- Chẹn kênh canxi (nifedipine, nicardipine).

- Ức chế tổng hợp prostaglandin (indomethacin, sulindac).

- Dẫn chất của nitric oxide (NO donors, GTN).

- Magnesium sulfate.

- Glucocorticoid: cho những bà mẹ có nguy cơ sinh non từ tuần thứ 24 đến tuần thứ 34 của thai kỳ (betamethasone, dexamethasone).

Hiện nay, do có quá nhiều tác dụng không mong muốn như: run giật, phù phổi, nhịp tim nhanh, nhồi máu cơ tim, tăng đường huyết… mà nhóm đồng vận bêta hầu như không còn được sử dụng trong điều trị dọa sinh non; năm 2011, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) cũng đã ra khuyến cáo không sử dụng terbutaline trong điều trị dọa sinh non.

Đối với nhóm ức chế canxi (nifedipine), tác dụng trì hoãn chuyển dạ sinh non trong 7 ngày như nhóm atosiban, có nhiều cải thiện tốt trên sơ sinh hơn nhóm đồng vận beta, tuy nhiên, ngoài các tác dụng phụ ít gặp và có lẽ cũng ít nguy hiểm hơn nhóm đồng vận bêta (táo bón, tiêu chảy, nôn ói, chóng mặt, hạ canxi, hạ huyết áp, tăng nhịp tim…), nifedipine lại gặp một khó khăn là thuốc chỉ được FDA phê chuẩn cho điều trị cao huyết áp chứ không điều trị dọa sinh non, khiến các nhà lâm sàng sản khoa đôi khi thiếu tự tin trong việc chỉ định điều trị dọa sinh non với nifedipine.

Atosiban (Tractocile) hiệu quả làm chậm tiến triển chuyển dạ sinh non trong 7 ngày, cũng như nhóm ức chế kênh canxi, atosiban có lẽ có tác dụng phụ ít nguy hiểm hơn nhóm đồng vận bêta (chóng mặt, buồn nôn, tăng đường huyết, tăng nhịp tim, hạ huyết áp, phản ứng da tại nơi đưa thuốc vào...) và tần số xảy ra các tác dụng phụ này ít gặp, vì vậy hiện tại, atosiban được RCOG khuyến cáo cho điều trị cắt cơn co tử cung. Thêm vào đó, trong khi nifedipine bị chống chỉ định trên các đối tượng bệnh nhân đái tháo đường, có bệnh lý tim mạch đi kèm hoặc đa thai, thì atosiban lại là thuốc giảm gò thích hợp để được lựa chọn cho các đối tượng bệnh nhân trên. Chính vì các ưu điểm đó, so với 2 nhóm đồng vận bêta và ức chế canxi, atosiban dường như được xem là một trong những lựa chọn an toàn cho điều trị dọa sinh non. Hạn chế khi điều trị với atosiban trong dọa sinh non chính là chi phí, do đó, các nhà lâm sàng sản khoa hiện nay vẫn còn cân nhắc chọn lựa giữa atosiban hay ức chế canxi, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển.

Một số thuốc khác như dẫn xuất nitric oxid (Nitroglycerin) qua một số nghiên cứu cho thấy có tác dụng giống ritodrine, tuy nhiên chưa đủ chứng cứ về các tác dụng không mong đợi; còn thuốc ức chế prostaglandin (indomethacin) cũng không đủ chứng cứ y học giúp dự phòng dọa sinh non.

Riêng magnesium sulfate có tác dụng bảo vệ não bộ thai nhi và được chỉ định nhằm mục đích bảo vệ thần kinh của thai nhi và sơ sinh. Cơ chế bảo vệ chưa rõ ràng, nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy sử dụng magnesium sulfate giúp giảm tổn thương não bộ sơ sinh, do đó có thể được chỉ định cho thai phụ với tuổi thai < 30 tuần, dọa sinh non có tiên lượng cuộc sinh xảy ra trong vòng 24 giờ.

Một vài lời kết

Sinh non và các biến chứng của sinh non là nguyên nhân gây tử vong sơ sinh hàng đầu tại các quốc gia đã phát triển, làm tổn thất một khoản ngân sách không nhỏ cho việc chăm sóc các trẻ sơ sinh non tháng này. Do đó, việc trì hoãn chuyển dạ sinh non có thể giúp giảm tỉ lệ các biến chứng này, đủ thời gian cho liệu pháp glucocorticoid trước sinh có hiệu quả, góp phần làm giảm suất độ và độ nặng của hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh, đồng thời cho phép chuyển tuyến đến nơi có đơn vị săn sóc sơ sinh tích cực.

Chẩn đoán cần được làm rõ ràng dựa trên các dấu hiệu lâm sàng có cơn co tử cung gây xóa mở cổ tử cung, các bằng chứng của siêu âm về sự thay đổi chiều dài cổ tử cung và chỉ điểm sinh học fFN có dương tính hay không, để có chiến lược điều trị cụ thể cho các thai phụ có dọa sinh non, chuyển dạ sinh non.

Việc lựa chọn thuốc cắt cơn co tử cung nên được xem xét theo tuổi thai, cơ địa và bệnh lý kèm theo của thai phụ; điều kiện cơ sở y tế; điều kiện tài chính của thai phụ... cần cân nhắc để có một lựa chọn tối ưu, tạo điều kiện thuận lợi trì hoãn chuyển dạ, để đủ thời gian tiếp nhận và phát huy hết hiệu quả của glucocorticoid cho hỗ trợ phổi thai nhi, cũng như kịp thời chuyển viện đến trung tâm có đơn vị chăm sóc sơ sinh tích cực.

Sinh non (preterm birth - PTB) được định nghĩa là sinh ra trước khi đủ 37 tuần thai kỳ (WHO).Một số các thuật ngữ được sử dụng trong chẩn đoán sinh non (Di Renzo và cộng sự, 2006): - SPB (spontaneous preterm birth): sinh non tự phát.- SPTL (spontaneous preterm labor): chuyển dạ sinh non tự nhiên.- PTL (preterm labor): sinh non.- PSROM (preterm spontaneous rupture of membranes): ối vỡ tự nhiên trước ngày dự sinh.- PPROM (preterm premature rupture of membranes): ối vỡ non và thai non tháng, bất thường cổ tử cung (cervical weakness).WHO (2014) phân loại các mức độ sinh non: - Cực non: khi trẻ sinh ra trước 28 tuần tuổi thai.- Rất non: khi trẻ sinh ra từ 28 - 31 tuần tuổi thai.- Non: khi trẻ sinh ra từ 32 - 36 tuần tuổi thai.

BS.CKII. NGUYỄN BÁ MỸ NHI

(Bệnh viện Từ Dũ)