Tiếp cận điều trị dọa sinh non từ những quan điểm mới

Theo thống kê, cứ 100 trẻ sinh ra và sống được thì có đến 12 trẻ sinh non, hậu quả sinh non là trẻ phải đối mặt với nhiễm trùng, khả năng thích nghi kém với môi trường sống ngoài tử cung, vì cơ thể chưa hoàn thiện; sinh non cũng là nguyên nhân chính gây tử vong trẻ sơ sinh tại các quốc gia đã phát triển, làm tiêu tốn một khoản ngân sách không nhỏ cho việc chăm sóc các trẻ sơ sinh non tháng này.

Trì hoãn chuyển dạ sinh non có thể làm giảm tỉ lệ các biến chứng này, do cải thiện sự phát triển và trưởng thành của các cơ quan và hệ thống, đủ thời gian cho liệu pháp glucocorticoid trước sinh có hiệu quả, góp phần làm giảm suất độ và độ nặng của hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh, đồng thời cho phép chuyển tuyến đến nơi có đơn vị chăm sóc sơ sinh tích cực.

sinh non80% số thai phụ có triệu chứng và nghi ngờ dọa sinh non, đã không diễn tiến đến sinh non

Chẩn đoán dọa sinh non

Không phải tất cả thai phụ có cơn co tử cung dọa sinh non sẽ diễn tiến sinh non. Nhiều nghiên cứu cho thấy 80% số thai phụ có triệu chứng và nghi ngờ dọa sinh non, đã không diễn tiến đến sinh non. Trên thực tế, dọa sinh non thường bị chẩn đoán quá mức, do thiếu phương tiện chẩn đoán hoặc loại trừ “dọa sinh non thực sự” và tiên lượng khả năng diễn tiến sinh non. Một số triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng lưu ý khi chẩn đoán có dọa sinh non:

- Cơn co tử cung > 30 giây, có ít nhất 4 cơn/ 20 phút, sờ cảm nhận được cơn co tử cung và gây đau.

Việc trì hoãn chuyển dạ sinh non có thể giúp giảm tỉ lệ các biến chứng

- Có sự biến đổi về vị trí, mật độ, độ dài và/ hoặc xóa mở cổ tử cung.

- Siêu âm ngả âm đạo (độ nhạy cao hơn siêu âm ngả bụng) thấy cổ tử cung ngắn đi.

- Xét nghiệm fetal fibronectin (fFN) giúp ích trong việc đánh giá SPB, làm giảm số bệnh nhân nhập viện không cần thiết, cũng như giảm thời gian nằm viện và chi phí điều trị.

Vì vậy, trong các y văn hiện nay, khuyến cáo không điều trị giảm co cho các thai phụ không có bằng chứng của dọa sinh non, nhất là khi không có các bằng chứng từ các chỉ điểm hình ảnh và sinh học. Hai yếu tố được quan tâm nhiều nhất, có thể tiên lượng được khả năng diễn tiến sinh non, là chiều dài cổ tử cung và fFN. Tiên lượng khả năng diễn tiến đến sinh non có vai trò quan trọng, nhằm có biện pháp dự phòng hợp lý, tránh can thiệp không cần thiết.

Chiều dài cổ tử cung: đo ngoài cơn co tử cung ở tuần thứ 19 đến tuần thứ 24 giúp đánh giá nguy cơ sinh non do cổ tử cung ngắn và chỉ định giải pháp dự phòng như khâu eo tử cung hoặc sử dụng progesterone đặt âm đạo. Chiều dài cổ tử cung đo vào thời điểm chẩn đoán có dọa sinh non giúp tiên lượng diễn tiến xảy ra sinh non trong vòng 7 ngày. Chiều dài cổ tử cung giúp phân biệt nhóm thai phụ có nguy cơ và bình thường là 15mm và 25mm. Tuy nhiên, chiều dài này thay đổi tùy theo nhiều nghiên cứu của các tác giả khác nhau.

fFN: được tìm thấy ở bề mặt trung gian các màng thai (màng ối và màng đệm), bản chất là một protein có khả năng kết dính sinh học, giúp cho túi thai gắn kết với thành cơ tử cung. Nồng độ fFN thấp được tìm thấy trong dịch tiết âm đạo-cổ tử cung ở các thai phụ bình thường, nhưng khi fFN tăng cao ≥ 50 ng/mL (từ tuần 22 trở đi), thai phụ đó có nguy cơ cao bị sinh non.

Từ dấu hiệu của chẩn đoán hình ảnh và chỉ điểm sinh học, điều trị cắt cơn co tử cung không được chỉ định khi fFN âm tính và chiều dài cổ tử cung > 2,5cm.

Điều trị

Trong khi các liệu pháp cắt cơn co tử cung không thể được chỉ định cho tất cả mọi trường hợp SPTL, một số nghiên cứu cung cấp chứng cứ cho thấy nếu được điều trị thì vẫn tốt hơn là không điều trị. Chưa có thuốc cắt cơn co tử cung hiện tại hoàn hảo đạt 100% hiệu quả và 100% an toàn, mọi cố gắng hiện nay vẫn đang tiếp tục để ngỏ hầu tìm ra được những thuốc có hiệu quả và an toàn cao nhất.

sinh non

Sự thật về giảm tử suất và bệnh suất cho trẻ sơ sinh trên các thai phụ có sử dụng thuốc cắt cơn co tử cung không được biết rõ, nhưng chưa có nghiên cứu nào đủ lớn và đủ mạnh về vấn đề đó. Thuốc cắt cơn co tử cung có thể trì hoãn cuộc chuyển dạ sinh nhằm có đủ thời gian để tiếp nhận và phát huy hiệu quả tối ưu của liệu pháp glucocorticoid trước sinh, cũng như sắp xếp chuyển viện khi trẻ còn nằm trong bụng mẹ đến các trung tâm có đơn vị săn sóc sơ sinh tích cực - cả hai điều này đều nhằm làm giảm tử suất và bệnh suất sơ sinh.

Một số thuốc (beta-2-agonist và atosiban) đã được chứng nhận để sử dụng như thuốc điều trị cắt cơn co và chỉ được sử dụng đặc biệt trong điều trị chuyển dạ sinh non (như atosiban). Hầu hết các thuốc chống co thắt có nhiều tác dụng không mong muốn lên nhiều cơ quan, trong thực tế, dựa trên các chứng cứ y học an toàn và hiệu quả, atosiban đã có nhiều chứng cứ được xem là chọn lựa hàng đầu cắt cơn co tử cung trong điều trị SPTL với mục đích ngăn ngừa hoặc trì hoãn chuyển dạ sinh non.

Vào những năm 1960, điều trị dọa sinh non được đề nghị bao gồm: nằm nghỉ một chỗ, bù dịch, giảm đau và cho các thuốc ức chế oxytocine. Đến năm 1970, FDA phê chuẩn ritodrine là beta-1-agonist (isoxsuprine). Năm 1980, xuất hiện tiếp các thuốc cắt cơn co tử cung khác như beta-2-agonist (ritodrine, salbutamol, terbutaline, hexaprenaline, orciprenaline, fenoterol); magnesium sulfate; ức chế tổng hợp prostaglandin (PGSIs) như indomethacin. Đến đầu những năm 1990, công bố của nhóm nghiên cứu chuyển dạ sinh non tại Canada đã đưa ra các cảnh báo sử dụng các thuốc thuộc nhóm beta-2-agonist, cho thấy có sự gia tăng tác dụng không mong muốn nghiêm trọng về tim mạch, phù phổi, đã dẫn đến việc có sự thay đổi dần dần trong điều trị dọa sinh non hoặc không sử dụng điều trị cắt cơn co tử cung bằng beta-2-agonist nữa; hoặc sử dụng các thuốc khác như đối vận receptor oxytocin là atosiban, chẹn kênh canxi (nifedipine) và nitric oxide. Tuy nhiên cho đến nay, dường như chưa có thuốc giảm gò nào tỏ ra có vượt trội về hiệu quả hơn các thuốc còn lại.

Như vậy, ngoài việc chỉ định liệu pháp glucocorticoid nhằm mục đích hỗ trợ phổi cho sơ sinh, các thuốc nào nên được chọn lựa để giúp cho việc trì hoãn chuyển dạ, tạo điều kiện thuận lợi cho liệu pháp glucocorticoid được tiếp nhận và phát huy tối ưu vai trò của mình, đồng thời kịp chuyến tuyến thai phụ đến các trung tâm y tế có săn sóc sơ sinh tích cực? Câu trả lời vẫn còn khá nhiều tranh luận, không phải khó khăn trong lựa chọn theo đặc tính thai phụ và tính ưu việt của từng loại thuốc, mà có lẽ chủ yếu là tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, hệ thống và cơ sở y tế cũng như chính sách bảo hiểm của từng quốc gia.

Các thuốc đã được biết đến nhằm giảm gò, bảo vệ não bộ thai nhi, hỗ trợ phổi cho thai:

- Đồng vận beta (ritodrine, terbutaline, salbutamol).

- Đối vận thụ thể oxytocin (atosiban).

- Chẹn kênh canxi (nifedipine, nicardipine).

- Ức chế tổng hợp prostaglandin (indomethacin, sulindac).

- Dẫn chất của nitric oxide (NO donors, GTN).

- Magnesium sulfate.

- Glucocorticoid: cho những bà mẹ có nguy cơ sinh non từ tuần thứ 24 đến tuần thứ 34 của thai kỳ (betamethasone, dexamethasone).

Hiện nay, do có quá nhiều tác dụng không mong muốn như: run giật, phù phổi, nhịp tim nhanh, nhồi máu cơ tim, tăng đường huyết… mà nhóm đồng vận bêta hầu như không còn được sử dụng trong điều trị dọa sinh non; năm 2011, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) cũng đã ra khuyến cáo không sử dụng terbutaline trong điều trị dọa sinh non.

Đối với nhóm ức chế canxi (nifedipine), tác dụng trì hoãn chuyển dạ sinh non trong 7 ngày như nhóm atosiban, có nhiều cải thiện tốt trên sơ sinh hơn nhóm đồng vận beta, tuy nhiên, ngoài các tác dụng phụ ít gặp và có lẽ cũng ít nguy hiểm hơn nhóm đồng vận bêta (táo bón, tiêu chảy, nôn ói, chóng mặt, hạ canxi, hạ huyết áp, tăng nhịp tim…), nifedipine lại gặp một khó khăn là thuốc chỉ được FDA phê chuẩn cho điều trị cao huyết áp chứ không điều trị dọa sinh non, khiến các nhà lâm sàng sản khoa đôi khi thiếu tự tin trong việc chỉ định điều trị dọa sinh non với nifedipine.

Atosiban (Tractocile) hiệu quả làm chậm tiến triển chuyển dạ sinh non trong 7 ngày, cũng như nhóm ức chế kênh canxi, atosiban có lẽ có tác dụng phụ ít nguy hiểm hơn nhóm đồng vận bêta (chóng mặt, buồn nôn, tăng đường huyết, tăng nhịp tim, hạ huyết áp, phản ứng da tại nơi đưa thuốc vào...) và tần số xảy ra các tác dụng phụ này ít gặp, vì vậy hiện tại, atosiban được RCOG khuyến cáo cho điều trị cắt cơn co tử cung. Thêm vào đó, trong khi nifedipine bị chống chỉ định trên các đối tượng bệnh nhân đái tháo đường, có bệnh lý tim mạch đi kèm hoặc đa thai, thì atosiban lại là thuốc giảm gò thích hợp để được lựa chọn cho các đối tượng bệnh nhân trên. Chính vì các ưu điểm đó, so với 2 nhóm đồng vận bêta và ức chế canxi, atosiban dường như được xem là một trong những lựa chọn an toàn cho điều trị dọa sinh non. Hạn chế khi điều trị với atosiban trong dọa sinh non chính là chi phí, do đó, các nhà lâm sàng sản khoa hiện nay vẫn còn cân nhắc chọn lựa giữa atosiban hay ức chế canxi, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển.

Một số thuốc khác như dẫn xuất nitric oxid (Nitroglycerin) qua một số nghiên cứu cho thấy có tác dụng giống ritodrine, tuy nhiên chưa đủ chứng cứ về các tác dụng không mong đợi; còn thuốc ức chế prostaglandin (indomethacin) cũng không đủ chứng cứ y học giúp dự phòng dọa sinh non.

Riêng magnesium sulfate có tác dụng bảo vệ não bộ thai nhi và được chỉ định nhằm mục đích bảo vệ thần kinh của thai nhi và sơ sinh. Cơ chế bảo vệ chưa rõ ràng, nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy sử dụng magnesium sulfate giúp giảm tổn thương não bộ sơ sinh, do đó có thể được chỉ định cho thai phụ với tuổi thai < 30 tuần, dọa sinh non có tiên lượng cuộc sinh xảy ra trong vòng 24 giờ.

Một vài lời kết

Sinh non và các biến chứng của sinh non là nguyên nhân gây tử vong sơ sinh hàng đầu tại các quốc gia đã phát triển, làm tổn thất một khoản ngân sách không nhỏ cho việc chăm sóc các trẻ sơ sinh non tháng này. Do đó, việc trì hoãn chuyển dạ sinh non có thể giúp giảm tỉ lệ các biến chứng này, đủ thời gian cho liệu pháp glucocorticoid trước sinh có hiệu quả, góp phần làm giảm suất độ và độ nặng của hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh, đồng thời cho phép chuyển tuyến đến nơi có đơn vị săn sóc sơ sinh tích cực.

Chẩn đoán cần được làm rõ ràng dựa trên các dấu hiệu lâm sàng có cơn co tử cung gây xóa mở cổ tử cung, các bằng chứng của siêu âm về sự thay đổi chiều dài cổ tử cung và chỉ điểm sinh học fFN có dương tính hay không, để có chiến lược điều trị cụ thể cho các thai phụ có dọa sinh non, chuyển dạ sinh non.

Việc lựa chọn thuốc cắt cơn co tử cung nên được xem xét theo tuổi thai, cơ địa và bệnh lý kèm theo của thai phụ; điều kiện cơ sở y tế; điều kiện tài chính của thai phụ... cần cân nhắc để có một lựa chọn tối ưu, tạo điều kiện thuận lợi trì hoãn chuyển dạ, để đủ thời gian tiếp nhận và phát huy hết hiệu quả của glucocorticoid cho hỗ trợ phổi thai nhi, cũng như kịp thời chuyển viện đến trung tâm có đơn vị chăm sóc sơ sinh tích cực.

Sinh non (preterm birth - PTB) được định nghĩa là sinh ra trước khi đủ 37 tuần thai kỳ (WHO).Một số các thuật ngữ được sử dụng trong chẩn đoán sinh non (Di Renzo và cộng sự, 2006): - SPB (spontaneous preterm birth): sinh non tự phát.- SPTL (spontaneous preterm labor): chuyển dạ sinh non tự nhiên.- PTL (preterm labor): sinh non.- PSROM (preterm spontaneous rupture of membranes): ối vỡ tự nhiên trước ngày dự sinh.- PPROM (preterm premature rupture of membranes): ối vỡ non và thai non tháng, bất thường cổ tử cung (cervical weakness).WHO (2014) phân loại các mức độ sinh non: - Cực non: khi trẻ sinh ra trước 28 tuần tuổi thai.- Rất non: khi trẻ sinh ra từ 28 - 31 tuần tuổi thai.- Non: khi trẻ sinh ra từ 32 - 36 tuần tuổi thai.

BS.CKII. NGUYỄN BÁ MỸ NHI

(Bệnh viện Từ Dũ)

Xử trí để không đau bụng khi đến kỳ kinh

Kinh nguyệt là hiện tượng sinh lý bình thường của các bạn nữ khi đến tuổi dậy thì. Trong những ngày có kinh, nhiều người chỉ có cảm giác hơi khó chịu ở bụng dưới, hơi cương tức ngực,… nhưng đối với một số người có triệu chứng đau tức bụng dưới, đôi khi đau quằn quại kèm theo đau thắt lưng, đau ngực, buồn nôn, rối loạn tiêu hóa,… ảnh hưởng rất lớn đến công việc và sinh hoạt.

Có rất nhiều nguyên nhân gây ra đau bụng khi hành kinh, có thể do sự co thắt quá độ của tử cung, hàm lượng chất prostaglandin (PG) trong máu kinh nguyệt và nội mạc tử cung tăng cao, một số bệnh lý như: lạc nội mạc tử cung, u dưới niêm mạc tử cung, dính khoang tử cung…

Cơn đau bụng kinh gây mệt mỏi, ảnh hưởng đến công việc và sinh hoạt.

Nếu đau bụng kinh diễn ra thường xuyên và kéo dài, người bệnh nên đến cơ sở y tế chuyên Sản phụ khoa để khám xác định nguyên nhân và được tư vấn điều trị. Ngoài ra để làm giảm cơn đau bụng kinh có thể áp dụng một số biện pháp đơn giản sau:

Vệ sinh kinh nguyệt đúng cách

Vào những ngày có kinh mặc dù cơ thể có mệt mỏi nhưng vẫn cần phải tắm, thay rửa thường xuyên bằng nước sạch (mùa lạnh nên dùng nước ấm). Tuyệt đối không dùng nước múc ở ao, hồ, sông, suối. Thay băng vệ sinh (hoặc vải xô) 4 - 5 lần một ngày. Mỗi lần thay băng vệ sinh dùng nước nấu chín còn ấm thay rửa. Nếu dùng dung dịch vệ sinh phụ nữ chỉ nên dùng loại có thành phần diệt khuẩn, chiết xuất từ thảo dược, giữ độ cân bằng pH.

Vận động nhẹ nhàng, tránh căng thẳng

Trong thời gian có kinh, chị em không nên luyện tập thể thao hoặc lao động nặng, chỉ nên đi bộ và vận động nhẹ nhàng. Tránh căng thẳng, xúc động, nghỉ ngơi thoải mái.

Chế độ ăn uống

Ăn uống đủ chất dinh dưỡng, ăn thức ăn dễ tiêu để tránh đầy bụng. Tránh ăn các thức ăn chua, cay, nóng,… Không nên uống cà phê, chè đặc, nước có ga,...

Chườm ấm

Giữ ấm cơ thể và chườm ấm vùng bụng là biện pháp hiệu quả làm dịu cơn đau bụng kinh. Bạn có thể dùng túi chườm ấm, miếng khăn đã được làm nóng hoặc đơn giản là một chai nước nóng vừa đủ để chườm lên vùng bụng dưới. Hơi ấm sẽ làm giãn cơ, làm tử cung co bóp dễ dàng, cơn đau sẽ dịu dần.

Dùng thuốc giảm đau

Tuy thuốc giảm đau không thực sự tốt cho cơ thể, nhưng nếu cơn đau ảnh hưởng đến sinh hoạt và công việc bạn có thể dùng thuốc giảm đau. Có nhiều loại thuốc giảm đau bụng kinh có bán tại các nhà thuốc nhưng trước khi dùng bạn cần có sự tư vấn của bác sĩ chuyên khoa về liều lượng và cách sử dụng. Dùng thuốc giảm đau chỉ là biện pháp tạm thời, bạn không nên sử dụng thường xuyên và kéo dài.

Bác sĩ Nguyễn Thị Hoa

Xử trí những phiền toái ở vú sau sinh

Sau khi sinh, thai phụ thường có hiện tượng bầu vú căng và đau, sữa không chảy ra được do ống tuyến sữa bị tắc, nứt núm vú và tụt đầu vú... lần đầu làm mẹ, với biết bao bỡ ngỡ, đau nhức, lo lắng. Để không làm ảnh hưởng đến nguồn sữa cho bé và sức khỏe của mẹ, bài viết dưới đây sẽ giúp bạn xử trí đúng cách những hiện tượng thường gặp ở bầu vú sau sinh.

Bầu vú căng, đau, tắc tia sữa

Vài ngày sau sinh, bà mẹ cảm thấy vú nóng, nặng và cứng. Sữa bắt đầu được tiết ra, đồng thời ống lym-phô ở tuyến vú và mạch máu căng lên chèn vào các tuyến vú làm các tia sữa trong tuyến vú bị nghẽn lại đôi khi vú căng sữa có cảm giác như nổi cục, mặc dù dịch sữa vẫn được tiết ra. Ðây là hiện tượng căng sữa bình thường, khi người mẹ cảm thấy bầu vú bị cương lên, hơi đau thì nên cho trẻ bú nhiều lần để hút bớt sữa ra, hoặc dùng tay nắn nhẹ vắt sữa ra. Trong vòng 1 - 2 ngày, vú mẹ sẽ tự điều chỉnh theo nhu cầu của trẻ và sẽ hết căng.bà mẹ cho con bú

Nhân viên y tế hướng dẫn bà mẹ cho con bú đúng cách.

Nếu bầu sữa cương cứng, đau, có thể dùng bơm hút sữa hoặc cho trẻ lớn hơn, khỏe hơn bú ngay từ lúc mới tắc, vú sẽ mềm dần.

Nếu vú bị căng to, càng lúc càng to dần, sờ đau, cứng rắn, bề mặt da đỏ, nóng rực, sản phụ có thể hơi hâm hấp sốt... Trong trường hợp này, nên dùng một bàn tay đè ép bầu vú lên thành ngực hoặc dùng hai bàn tay ép vào nhau. Vừa ép vừa day sẽ làm tan các vị trí sữa đã đông kết. Bởi vì chỉ có lực day ép mới có tác dụng đối với vị trí tắc nằm ở sâu trong bầu vú và mới có thể làm tan sữa đã đông kết, day từ từ theo vòng tròn, tăng dần, khoảng 20 lần, rồi lại làm ngược lại, làm nhiều lần. Mặt khác vừa day, vừa chườm ấm bầu vú giúp cho sữa đông kết tan dần, tình hình sẽ dần được cải thiện và bạn có thể sử dụng kết hợp với máy hút sữa để hút sữa ra.

Hiện nay, một số bệnh viện, có sử dụng đèn hồng ngoại và đèn chiếu ánh sáng xanh giảm tác động của việc tắc tia sữa, cương sữa, giúp thông tia, làm mềm bầu vú. Do vậy trong trường hợp cấp thiết, thai phụ nên đến bệnh viện để thầy thuốc thăm khám và xử trí kịp thời, tránh những biến chứng không đáng có.

Nứt núm vú và tụt đầu vú

Thông thường đầu vú nhô cao lên trên bề mặt của quầng thâm bầu vú. Khi mang thai, đầu vú càng to hơn, càng nhô hẳn lên. Trường hợp nếu đầu vú tụt sâu vào trong, trẻ sẽ không thể bú được. Sữa bị tích đọng trong vú gây tắc tia sữa, viêm tuyến sữa. Do đó, trong thai kỳ, thai phụ cần chăm sóc bầu vú cẩn thận, lau rửa sạch đầu vú bằng nước sạch mỗi ngày. Nếu thấy đầu vú tụt vào, bạn có thể dùng tay kéo nhẹ đầu vú ra ngoài, công việc này cần thực hiện đều đặn và làm hằng ngày. Sau khi sinh, nếu đầu vú tụt vào trong, ảnh hưởng đến việc bú sữa của trẻ và sức khỏe của mẹ, có thể dùng bơm hút để hút sữa ra. Nếu núm vú bị xước hoặc rạn nứt thì nên làm ẩm ướt đầu vú bằng dầu cá, dầu gấc bôi lên đầu vú. Không rửa vú bằng xà phòng và không bôi cồn.

Viêm tuyến sữa

Trong thời kỳ cho con bú thai phụ rất dễ bị viêm tuyến sữa do vi khuẩn xâm nhập vào mô vú gây ra, thông qua vết nứt trên núm vú. Đó là khi thai phụ cho con bú không đúng cách, sữa tích tụ lại. Tư thế cho bú không đúng làm trẻ khó bú, khiến trẻ không nhận được sữa, trẻ có thể làm tổn thương vùng da (nứt) đầu núm vú do trẻ day đi day lại hoặc lôi kéo núm vú; hoặc do núm vú tụt vào hoặc bằng phẳng quá, trẻ sẽ cắn mút đầu vú, hình thành nên những vết thương nhỏ và loét rộng ra, hoặc do sản phụ phải nặn sữa nhưng chưa biết cách nặn khiến núm vú bị tổn thương tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn bên ngoài xâm nhập được vào tuyến sữa qua vết nứt của đầu vú dẫn đến viêm tuyến sữa.

Biểu hiện chủ yếu khi bị viêm tuyến sữa là bên vú bị viêm, sưng, ấn thấy đau, sữa tiết ra không thông suốt, da vú hơi đỏ, người bệnh có cảm giác sốt, sợ rét. Nặng hơn sẽ sốt, đau đớn rất khó chịu, tuyến sữa có mủ,... Nếu không được điều trị sẽ có thể dẫn đến biến chứng bại huyết, áp-xe vú... Do đó các bà mẹ cần chú ý ngay từ khi có biểu hiện sữa không thông (tắc tia sữa), vú cương đau, khi cho con bú cần dùng tay hoặc dùng dụng cụ hút sữa hút hết sữa thừa còn lại ở hai bên vú, vệ sinh vú thường xuyên trước khi cho trẻ bú. Nếu đầu vú đã bị nứt, bầu vú sưng đỏ, sốt,... thì tạm thời dừng cho con bú và đi khám ngay để bác sĩ chỉ định dùng thuốc chữa viêm, không nên để kéo dài tránh biến chứng.

Lời khuyên của thầy thuốcViệc cho con bú sau sinh thường hay gặp những phiền toái nhất định, sữa lưu ứ lại trong vú mẹ gây nên những trục trặc ở núm vú và bầu vú. Khi vú quá căng, một phần do các mô bị phù nề làm cản trở lưu thông sữa, ống dẫn sữa đã bị tắc.Một phần do trẻ ngậm bắt vú không đúng cách, cữ bú ngắn, nên sữa đã không được hút ra tốt. Vậy để tránh được những trục trặc ở bầu vú sau sinh, các bà mẹ cần chú ý đến việc cho trẻ ngậm bắt vú đúng cách: Khi cho con bú, các bà mẹ bế trẻ ở tư thế thoải mái, để toàn thân trẻ sát vào người mẹ, miệng trẻ ngậm sâu vào quầng đến bao quang núm vú, cằm tỳ vào bầu vú mẹ. Trẻ bú đúng cách sẽ giúp mẹ không bị đau rát, không bị nứt núm vú, không căng tức sữa, cải thiện sự lưu thông của sữa giảm đau nhức, viêm tuyến vú. Trẻ bú đúng sẽ giúp trẻ nhận được nhiều sữa, chắc chắn trẻ sẽ lớn lên khỏe mạnh, thông minh và phát triển tốt cả về thể chất và tinh thần thông qua sữa mẹ.

ThS. Lê Thị Hương

Những điều cần biết về nguyên nhân gây sảy thai

Chất lượng trứng và tinh trùng kém

Trứng và tinh trùng không thể phát triển đầy đủ nếu dinh dưỡng kém hoặc tuổi cao. Không hấp thu đủ một số khoáng chất như kẽm hoặc selen và những vitamin, khoáng chất khác trong chế độ ăn có thể làm giảm chất lượng trứng và tinh trùng. Phụ nữ thậm chí có thể bị sảy thai nếu tinh trùng không tốt. Do vậy hãy tập trung vào chế độ ăn của bạn.

Suy giáp

Nếu bạn có tuyến giáp hoạt động kém, điều này có nghĩa các hormon tuyến giáp không được tiết ra đủ trong cơ thể, do đó có thể gây sảy thai nhiều lần và thậm chí là khó khăn trong việc thụ thai.

Đường huyết cao

Ở một số phụ nữ mang thai, lượng đường huyết cao bất thường nhưng không được phát hiện. Đường huyết tăng có thể dẫn tới sảy thai. Vì vậy, hãy kiểm tra đường huyết khi mang thai để tránh các biến chứng và sảy thai.

Các rối loạn miễn dịch

Đôi khi, lý do gây sảy thai có thể rất phức tạp. Điều này có nghĩa có vấn đề với một số enzym có tên là các enzym phospholipid. Trong trường hợp này, một số cục máu đông nhỏ có thể được hình thành trong máu của người mẹ làm chết thai. Để chẩn đoán, bạn cần làm xét nghiệm máu (xét nghiệm kháng phospholipid).

Bất thường nhiễm sắc thể

Ở một số phụ nữ có tình trạng được gọi là chuyển đoạn cân bằng. Tình trạng này hiếm gặp nhưng có thể gây sảy thai nhiều lần. Trong bệnh này, một số đoạn của một nghiễm sắc thể có thể bị phân chia và dính vào nhiễm sắc thể khác, gây bất thường trong trứng và kết quả là gây sảy thai. Trong trường hợp này, người phụ nữ phải kiên trì và nhiều khả năng sẽ có thai kỳ khỏe mạnh.

Thói quen gây hại

Nếu người phụ nữ có những thói quen xấu như hút thuốc, uống rượu, nguy cơ sảy thai sẽ tăng lên. Ăn những thực phẩm không lành mạnh cũng có thể gây sảy thai.

Chấn thương

Bất cứ căng thẳng về tinh thần hoặc thể chất nào đều có thể khiến bạn rơi vào trạng thái sốc, gây sảy thai. Trong một chấn thương thể chất, người mẹ có thể mất con và trong những căng thẳng tinh thần tột độ, các hormon stress có thể tấn công tử cung gây sảy thai.

BS Cẩm Tú

(Theo Boldsky)

Dời ngày “đèn đỏ” thế nào để tránh thai?

Tháng trước em có kinh ngày 23, tháng này do có việc bận nên em muốn dời ngày kinh (kinh nguyệt của em là 28 ngày) nên em uống thuốc từ ngày 20-29 thì dừng và ngày 30 vợ chồng em có quan hệ, vậy em có thai không?

Linh (trankhanhlinh220595@gmail.com)

Thuốc uống tránh thai ngoài tác dụng tránh thai, trong sản khoa còn dùng điều trị tạo vòng kinh nhân tạo, uống để dời ngày kinh nguyệt... Theo nguyên tắc, khi dùng thuốc tránh thai hằng ngày thì ngày nào cũng phải uống mới có tác dụng tránh thai và được khuyến cáo uống vào ngày thứ 3 sau khi thấy kinh. Còn trường hợp của em là uống để dời ngày kinh nên nếu đang uống mà ngừng không uống nữa khoảng một vài ngày sau sẽ thấy kinh nguyệt. Theo thư em thì em chỉ uống thuốc có 10 ngày (từ 20-29) lại ngừng thì chỉ có tác dụng dời ngày kinh chứ không thể tránh được thai. Vì vậy nếu thấy trễ kinh 7-10 ngày em cần kiểm tra bằng que thử hoặc siêu âm xem có thai không để có cách giải quyết thai ngoài ý muốn sớm.

BS. Kim Oanh

Truyền hình trực tuyến: Giảm bốc hoả, khô hạn, rụng tóc ở phụ nữ 40+

Mời các bạn theo dõi chương trình

Ở tuổi tiền mãn kinh 40+, mãn kinh 50+, buồng trứng lão hóa làm nội tiết tố nữ suy giảm, khiến chị em gặp nhiều rối loạn về tâm lý và sinh lý như khô âm đạo, bốc hỏa, giảm trí nhớ, mất ngủ và trầm cảm, mất ham muốn tình dục…

Nội tiết tố nữ estrogen có vai trò quan trọng cho sức khỏe phụ nữ. Sự thiếu hụt estrogen khiến cơ thể có nhiều thay đổi và ở mỗi độ tuổi có ảnh hưởng khác nhau.

Tình trạng thiếu estrogen có thể xảy ra ở mỗi độ tuổi khác nhau từ độ tuổi dậy thì, độ tuổi sinh sản, nhưng thường xảy ra ở phụ nữ bước sang giai đoạn tiền mãn kinh và mãn kinh. Đây là điều không thể tránh khỏi do sự lão hóa của các cơ quan sinh sản như buồng trứng, tử cung.

Sự thiếu hụt trong giai đoạn này gây ra nhiều rối loạn về sinh lý, làm suy giảm hệ miễn dịch và sức khỏe phụ nữ. Loãng xương và nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch, thận luôn đe dọa cuộc sống chị em. Làn da bị nám, sạm đen và nhăn nheo, chùng xuống.

Vậy làm sao để khắc phục những khó chịu này để giúp chị em có được cuộc sống khỏe đẹp?

Nhằm cung cấp cho bạn đọc những kiến thức mới nhất về cách phòng, phát hiện và điều trị các bệnh thường gặp ở phụ nữ tuổi 40+; đồng thời giải đáp những thắc mắc của bạn đọc xung quanh vấn đề này, Báo điện tử Sức khỏe&Đời sống tổ chức buổi Tư vấn Truyền hình trực tuyến “Giảm bốc hoả, khô hạn, rụng tóc ở phụ nữ 40+”.

Khách mời tham dự chương trình gồm:

PGS.TS. Vũ Bích Nga, Phó trưởng Khoa Nội tổng hợp, Viện trưởng Viện Đái tháo đường và các bệnh rối loạn chuyển hóa- Trường Đại học Y Hà Nội, Tổng thư ký Hội Nội tiết- Đái tháo đường Việt Nam.

PGS.TS Nguyễn Thị Lâm, Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia


Buổi tư vấn sẽ được truyền hình trực tuyến trên Báo điện tử Sức khoẻ&Đời sống (Suckhoedoisong.vn), trên kênh Youtube, fanpage Y tế Việt Nam và fanpage của báo Sức khỏe&Đời sống bắt đầu từ: 14h00, thứ Năm, ngày 8/12/2016.

Bạn đọc có thể gửi câu hỏi về tòa soạn ngay từ bây giờ theo địa chỉ:

Email: bandientuskds@gmail.com

hoặc gọi theo số 0961092959 trong thời gian diễn ra chương trình

Hoặc điền vào mẫu phía dưới trang.

Báo điện tử Sức khoẻ&Đời sống (Suckhoedoisong.vn) trân trọng cảm ơn PGS. TS Lưu Thị Hồng, nguyên Vụ trưởng Vụ Sức khỏe bà mẹ và trẻ em, Bộ Y tế; PGS.TS. Vũ Bích Nga, Phó trưởng Khoa Nội tổng hợp, Viện trưởng Viện Đái tháo đường và các bệnh rối loạn chuyển hóa- Trường Đại học Y Hà Nội, Tổng thư ký Hội Nội tiết- Đái tháo đường Việt Nam; PGS.TS Nguyễn Thị Lâm, Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia đã nhận lời tham gia chương trình.

Mời độc giả tham gia chương trình tương tác truyền hình trực tuyến

Khán giả tương tác với chương trình:1. LikeFanpageBáo Sức khoẻ và đời sống2. Sharelinksự kiện của chương trình.3. Trả lời câu hỏi của chương trình chính xác và nhanh nhất.

Những khán giả có câu trả lời chính xác nhất và nhanh nhất sẽ được chúng tôi công bố ngay trong chương trình này.

Câu hỏi 1: Thiếu hụt nội tiết tố nữ gây ra những ảnh hưởng gì đối với sức khoẻ phụ nữ?

A. Bệnh tự miễn

B. Rối loạn tâm lý và sinh lý

C. Bệnh tim mạch

Đáp án đúng: Đáp án B

CHÚC MỪNG ĐỘC GIẢ CÓ FACEBOOK LÀ Minh Hằng ĐÃ TRÚNG THƯỞNG C U HỎI SỐ 01 CỦA CHƯƠNG TRÌNH.

Câu hỏi 2: Nguyên nhân nào gây ra tình trạng thiếu estrogen ở phụ nữ tiền mãn kinh và mãn kinh?

A. Do sự lão hoá của các cơ quan sinh sản như buồng trứng, tử cung

B. Do vận động nhiều

C. Do ngồi nhiều, ít vận động

D. Tất cả các yếu tố trên

Đáp án đúng: đáp án A

CHÚC MỪNG ĐỘC GIẢ CÓ FACEBOOK LÀ Ánh Nguyệt ĐÃ TRÚNG THƯỞNG C U HỎI SỐ 02 CỦA CHƯƠNG TRÌNH.

Câu hỏi 3: Câu hỏi 3: Để tăng cường nội tiết tố nữ estrogen, chị em cần làm gì?

A. Tự uống thuốc bổ sung nội tiết tố nữ

B. Bổ sung dinh dưỡng theo tư vấn của bác sĩ và có chế độ luyện tập hợp lý

Đáp án đúng: B

CHÚC MỪNG ĐỘC GIẢ CÓ FACEBOOK LÀ Bếp Nhà Nhím Kem ĐÃ TRÚNG THƯỞNG C U HỎI SỐ 03 CỦA CHƯƠNG TRÌNH.

Trân trọng cảm ơn nhãn hàng Amanda đã đồng hành cùng chương trình!

Sản nang là gì?

Tôi 45 tuổi, đang ở giai đoạn tiền mãn kinh. Tôi thường xuyên kiểm tra sức khỏe của mình, nhất là vùng ngực, vì biết rằng ở độ tuổi này rất dễ mắc ung thư vú. Khoảng 3 tháng gần đây ở cả hai bên ngực tôi xuất hiện một nang mềm, không đau. Tôi đi khám bệnh, bác sĩ nói bị dị sản nang. Xin bác sĩ giải thích rõ hơn về căn bệnh này.

Dương Thanh Hoa (Nghệ An)

Dị sản sợi - nang, bệnh Reclus, dị sản nang - hay dân gian vẫn gọi bệnh “cục hạch” là bệnh u nang lành tính mà phụ nữ trung niên rất dễ mắc. Các cục hạch (nang) chứa đầy dịch này thực chất là một hốc do một đoạn của ống dẫn sữa nở ra. Số lượng nang này nhiều hay ít tùy người và tùy lúc. Thường thì kích thước lớn nhỏ không đều, đường kính từ vài mm đến vài cm hoặc to hơn. Các nang này không đau và rất khó phát hiện. Chỉ có các nang chứa nhiều dịch, to đến một mức nào đó hoặc nằm sát dưới da thì mới sờ thấy. Phần lớn người bệnh tự phát hiện thấy khi nằm sấp đè lên ngực hay chà xát trong lúc tắm, vì những lúc đó nang vú căng lên. Tuy một số trường hợp các nang này sẽ biến mất khi mãn kinh hoàn toàn nhưng nếu nghi là bị nang tuyến vú, chị em nên đi khám sớm. Nếu đúng là bị dị sản nang, bác sĩ sẽ dùng kim chọc rút dịch. Khi rút dịch, nang sẽ xẹp đi và hiếm khi tái phát lại. Nhưng nhiều trường hợp sẽ mọc nang mới ở chỗ khác trong vú hoặc ở bên kia vú.

BS. Trần Phương Thu